ÁO BÔNG CHE BẠN
Ai ơi, còn nhớ ai không ?
Trời mưa một mảnh áo bông che đầu.
Nào ai có tiếc ai đâu ?
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô ?
Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc than ngô một mình
Non non nước nước tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ...
ÔNG ẤM
Ấm không ra ấm, ấm ra... nồi,
Ấm chạy lăng quăng ấm chẳng ngồi.
Chán cả đồ chuyên cùng chén mẫu (*)
Luộc giò, ninh thịt, lại đồ xôi!
Gọi "ông ấm" vì con nhà dòng dõi.
(*)Ấm là vật dụng quí sang ,chỉ để pha trà.Nhưng ấm "nồi "nầy không,đánh bạn với các thứ chén tách ,mà hoàn toàn làm việc ninh nấu của...nồi.
Ông cử Ba
Cửa Vũ, ba nghìn sóng nhảy qua (1)
Ai ngờ mũ áo đến ...ba ba (2)
Đầu như lươn đất mà không lấm (3)
Thân tựa xà hang cũng ngó ra (4)
Dưới nước chẳng ưa, ưa trên cạn
Đất sét không ăn, ăn thịt gà!
Tuy rằng cổ rụt mà không ngỏng
Hễ cắn ai thì sét mới tha! (5)
(1)Vượt qua được cửa Vũ Môn (cá chép hóa rồng ,thí sinh thi đỗ )
(2)Chơi chữ :"cử Ba " và "con ba ba "
Đáng lẽ mũ áo chỉ đến với cá chép đã hóa rồng ,nhưng bây giờ lại ban cho.."ba ba "
(3)Do câu : "thân lươn bao quản lấm đầu "
(4)Rắn núp trong hang ngó ra ,vênh váo
(5)Con ba ba rất là ác...cắn ai thì trời gầm (sấm sét ) mới nhã. Ý nói cử Ba tàn ác với dân
ÔNG CỬ THỨ NĂM
Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai!
Thứ năm, ông cử ai làm nổi,
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội ?
Nghe tin, bà cố cười khì khì
Đổ cả riêu cua xuống vũng lội! (2)
(1)Ông cử nầy bố là ông lang ,mẹ bán bún riêu ,may đỗ cao (thứ năm ),thực học cũng xoàng
(2)Trong bài nầy ,Tú Xương đã phá niêm luật thơ đường ,tạo nên một vần "ai" rất mới.....!
ÔNG CÒ
Hà Nam, danh giá nhất ông cò (1)
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống toang đành chịu dột (2)
Tám giờ chuông đánh phải nằm co. (3)
Người quên mất thẻ âu trời cãi,
Chó chạy ra đường có chủ lo. (4)
Ngớ ngẩn đi xia, may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to! (5)
(1)ông cò : cảnh sát
(2)Vì muốn lợp nhà phải xin phép lôi thôi
(3)Phép giới nghiêm ,từ 8 giờ tối không ai được ra đường
(4)Không mang thẻ thân ,để chó chạy ra đường đều bị phạt nặng
(5)Bắt được kẽ đi xia để phạt ,tức...kiếm ăn to.
ÔNG HÀN
Hàn lâm tu soạn kém gì ai ? (1)
Đủ cả vung, nồi, cả cóng chai (2)
Ví thử quyển thi ông được chấm
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai!
Tức hàn Triệu, vốn chỉ là tay nấu rượu, buôn bán, chạy được chút phẩm hàm.
(1)Hàn lâm tu soạn :tức tu thư ,ngang hang` thất phẩm
(2)Tu soạn gì?Tu soạn toàn dụng cụ nấu...rượu !
ÔNG HÀN BỊ VỢ DỌA BỎ
Ông đã ơn vua một chữ "hàn" (1)
Nay lành mai vỡ khéo đa đoan!
Được thua hai ngả, ba câu chuyện
Khôn dại trăm năm một tiếng đàn.
Chim chuột sau này, nên gắng sức...
Lợn gà thủa ấy đã nên oan.
Có ai làm thủng, ông không biết,(2)
Còn phải mang điều với gái ngoan.
(1)Tức chữ "hàn lâm ",trong bài thơ tác giã chơi chữ với nghĩa "hàn gắn ",kể cả hàn gắn "tình " lẫn hàn "xông nồi "!
(2)Tài của ông "hàn " chỉ có thể biết xông nồi lành hay thủng ,còn...gái thì ông chịu không biết gì...
ÔNG TIẾN Sĩ MỚI
Tiến sĩ khoa này đỗ mấy người ?
Xem chừng hay chữ có ông thôi!
Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ (*)
Cờ biển vua ban cũng lạ đời!
(*) có bản chép : cho ông mãi
ĐAU MẮT
Vui chẳng riêng ai, ốm một mình,
Hỏi ai, ai cũng chỉ mần thinh.
Vừa đồng bạc lớn, ông lang Sán (1)
Lại mấy hào con, chú ích Sinh (2)
Hỏi vợ, vợ còn đi chạy gạo,
Gọi con, con mải đứng chơi đinh.
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ ?
Gương mắt trông chi buổi bạc tình ?
(1) ông lang Sán : hiệu thuốc Bắc
(2)chú ích Sinh :hiệu thuốc Bắc
ĐẠI HẠN
Dạo này đá chảy với vàng trôi
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì! Ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi.
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi.
Tình cảnh nhà ai nông nỗi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi.
ĐẠO ĐỨC GIẢ
Hỏi lão đâu ta ? Lão ở Liêm
Trông ra bóng dáng đã hom hem.
Lắng tai, non nước nghe chừng nặng (1)
Chớp mắt trăng hoa, giả cách nhèm (2)
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ (3)
Lại còn tấp tểnh với đàn em.
Xuân thu ướm hỏi đà bao tá ?
Cái miếng phong tình vẫn chửa khem.
(1)nghe chừng nặng : nặng tai
(2)giả cách nhèm :giả mắt kèm nhèm để sán lại nhìn gái
(3)Ra vẻ mô phạm với người ít tuổi
ĐẤT VỊ HOÀNG
Có đất nào như đất ấy không ?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở những hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không ?
Vùng đất có sông Vị Hoàng chảy qua (thuộc tỉnh Nam Định trước đây), quê hương của Tú Xương.
ĐỂ VỢ CHƠI NHĂNG
Thọ kia mày có biết hay chăng ?
Con vợ mày kia, xiết nói năng!
Vợ đẹp, của người không giữ được,
Chồng ngu, mượn đứa để chơi nhăng.
Ra đường đáng giá người trinh thục
Trong dạ sao mà những gió trăng ?
Mới biết hồng nhan là thế thế.
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng!
ĐỒNG TIỀN
Phàm kim chi nhân, duy tiền nhi dĩ (1)
Hết tiền tiêu, tráng sĩ cũng nằm co!
Chẳng dại khôn cũng chẳng thân sơ,
Có hơi kẽm, tha hồ ngang ngửa!
Thơ rằng:
Toán lai thế sự kim năng ngữ
Thuyết đáo nhân tình kiếm dục minh (2)
Dơ dáng thay những mặt tài tình
Co quắp lắm cũng ra hình thủ lỗ (3)
Tiền dẫu hết, hết rồi lại có
Chữ bất nhân tạc đó không mòn.
Ai ơi giữ lấy lòng son!
(1)Người đời nay,thường chỉ tiền (vàng ) mới có thể....(giải quyết mọi sự )
(2)Tính lại việc đời thì vàng (tiền ) có thể biết nói năng ,nói đến nhân tình (cảnh con người )lưởi kiếm muốn kêu lên
(3)Ý nói :kể cả những kẽ tài tình mà ham hố với đồng tiền quá cũng thành kẽ ki bo ,bẩn thỉu
ĐỔI THI
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì!
ĐÊM DÀI
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng loà,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà ?
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết
Xao xác năm canh một tiếng gà.
Chim chóc hãy còn nương cửa tổ
Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa.
Nào ai là kẻ tìm ta đó
Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà!
ĐÊM HÈ
Trời không chớp bể với mưa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông.
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng.
Ngủ quách, sự đời thây kẻ thức
Bên chùa chú trọc đã hồi chuông.
ĐÙA BẠN Ở TÙ
Cái cách phong lưu, lọ phải cầu!
Bỗng đâu gặp những chuyện đâu đâu,
Một ngày hai bữa cơm kề cửa,
Nửa bước ra đi, lính phải hầu.
Trong tỉnh, mấy toà quan biết mặt
Ban công ba chữ gác ngang đầu. (*)
Nhà vuông thong thả nằm chơi mát,
Vùng vẫy tha hồ thế cũng âu!
(*) Ba chử khẩu : tạo thành hình cái gông
ĐI HÁT MẤT Ô
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày chân anh dận, ô tay anh cầm.
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ.
Hỏi ô, ô mất bao giờ,
Hỏi em, em cứ ưỡm à không thưa.
Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình ?
ĐI THI
Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,
Cũng lều cũng chõng cũng vào thi.
Tiễn chân, cô mất hai đồng chẵn, (1)
Sờ bụng: thầy không một chữ gì!
Lộc nước còn mong thêm giải ngạch (2)
Phúc nhà nay được sạch trường qui.
Ba kì chọn vẹn thêm kì nữa,
Ú ớ u ơ ngọn bút chì. (3)
(1) Cô : Vợ tác giả
(2)giải ngạch :mong lấy thêm người đỗ
(3)Tú897 ,kì thứ 4 " quốc ngữ " viết các chữ như a ,ă.â..v...v...Nhà nho dùng bút chì vẽ các chữ nầy ,vừa tức cười vừa tủi nhục
ĐI THI NÓI NGÔNG
Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông. (1)
Trên bảng năm hai thầy cử đội (2)
Bốn kì mười bảy cái ưu thông (3)
Xướng danh tên gọi trên mình tượng (4)
Ăn yến xem ra có thịt công.
Cụ xứ có cô con gái đẹp (5)
Lăm le xui bố cưới làm chồng!
(1)Tác giả tưởng tượng một cách ngông
(2)Lệ thi chỉ lấy đậu 50 cử nhân ,mà trên bảng lại có 52 vị cử nhân đứng dưới tác giả ! ( nói ngông )
(3)Cả 4 kì ,tối đa mới có 16 điểm ưu ( ưu thông ) mà tác giả được những 17 điểm !
(4)Người xướng danh thí sinh thi đỗ ngồi trên mình voi
(4)Cụ xứ: Cụ Hàn doãn Trực ,đỗ đầu xứ ,có 2 con gái đẹp đang kén chồng đỗ cử nhân
BA CÁI LĂNG NHĂNG
Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà !
BỠN ÔNG ẤM ĐIỀM
Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà
Trước nhà có miếu, có cây đa.
Cửa hè sân ngõ chừng ba thước,
Nứa lá tre pheo đủ một toà.
Mới sáu bận sinh đà sáu cậu,
Trong hai dinh ở, có hai bà.
Trông ông mốc thếch như trăn gió
Ông được phong lưu tại nước da.(*)
(*)Bài thơ chế giễu một hạng người sống rất tủn mủn ,bẩn thỉu
BỠN TRUI PHỦ XUÂN TRƯỜNG
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên (*)
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên.
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"!
(*) Thuộc tỉnh Nam Định ,Tri phủ nguyên là bạn Tú Xương ,sau khi làm quan đâm ra quen thói tham nhũng
BỢM GIÀ
Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang,
Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng.
Kiện hết sở Tuần, vô sở Sứ
Khi thì thầy số, lúc thầy lang.
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,
Phong lưu đài các giống ông hoàng.
Phong lưu như thế phong lưu mãi
Điếu ống, xe dài độ mấy gang ?
Một tay bợm đóng nhiều vai, thầy lang, thầy bói, thầy dùi. Tên này thường luồn lọt vào các công sở để xui nguyên giục bị kiện nhau.
BÁC CỬ NHU
Sơ khảo khoa này, bác cử Nhu (1)
Thực là vừa dốt lại vừa ngu (2)
Văn chương nào phải là đơn thuốc! (3)
Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu!
(1)Cử Nhu : con nhà bán thuốc Bắc, học lực tầm thường. Nhu có bằng cử nhân, được cử làm chủ kì thi sơ khảo trường thi Nam Định khoa Canh Tí (1900)
(2)Có bản chép :"Sách như hủ nút ,chữ như mù "
(3)Khuyên :Tức dùng bút đỏ khuyên một vòng ở câu văn hay,nhà thuốc Bắc cũng có kiểu đánh dấu vào đơn thuốc lúc bốc thuộc Tác giã chế giễu ông bán thuốc bắc chấm thi
BUỒN THI HỎNG
Bụng buồn còn muốn nói năng chi ?
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì!
Được gần trường ốc vùng Nam Định
Thua mãi anh em cánh Bắc Kì.
Rõ thực nôm hay mà chữ tốt
Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui.(*)
(*)Các luật lệ phải theo lúc làm bài thi (như kiêng các tên húy cua> họ nhà vua...) Tú Xương lậ đận về khoa cử tới 8 lần...tức trên 20 năm
CẢM HỨNG
Xấp xỉ ba mươi mấy tuổi đầu
Trăm năm tính đốt hãy còn lâu.
Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu.
Đất nọ vẫn thường hay có chạch (1)
Bể kia có lúc cũng trồng dâu (2)
Hôm nay rỗi rãi buồn tình nhỉ
Thử xuống Hàng Thao đập ngón chầu.(3)
(1)Tục ngữ:"Đất sỏi chạch vàng "Ý nói đất tầm thường vẫn có thể sinh người tài giỏi
(2)Do câu "Biển xanh biến thành nương dâu "(thương hải biến vi tang điền )
(3)hàng thao :nơi có xóm cô đầu
CẢM TẾT
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo!
Tiền bạc trong kho, chửa lĩnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy,
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh đường sắp gói, e nồm chẩy,
Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu .. ..
Thôi thế thì thôi, đành tết khác,
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo!
CÁI NHỚ
Cái nhớ hình dung nó thế nào ?
Khiến người trong dạ ngẩn ngơ sao!
Biết nhau cho lắm thêm buồn nhỉ
Để khách bên trời dạ ước ao!
CÂU ĐỐI TẾT
Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo (1)
Nhân tình trắng thế, lại bôi vôi.(2)
-Không dưng, xuân đến chi nhà tớ?
-Có nhẽ trời mà đóng cửa ai!
Nực cười thay: Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết;
Thôi cũng được: Rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi!
Xuân về chớ để xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh (3)
Năm mới khác gì năm cũ, van người bán muối với mua vôi.(4)
(1)Chú thích: Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo
Do câu "Tan như xác pháo"
(2)Chú thích: Nhân tình trắng thế, lại bôi vôi.
Cuối năm đón Tết, người ta rắc vôi bột trước nhà thành hình cánh cung, nỏ, giáo... để trừ ma quỉ.
"Nhân tình" ở đây có nghĩa: "cảnh người" tức cảnh sống gieo neo khốn khó của con người thời ấy.
"Trắng": bạc phếch, kiệt quệ.
(3)Chú thích: Xuân về chớ để xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh
Giữ xuân cho khỏi hè nồng (quạt) và đông rét (ấp lạnh).
(4)Chú thích: Năm mới khác gì năm cũ, van người bán muối với mua vôi.
Do câu "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi".
CÂU ĐỐI THAN THÂN
Nợ có chết ai đâu, chửi chó mắng mèo eo óc;
Trời để sống ta mãi, lên xe xuống ngựa có phen.
Trúc báo bình an, nỡ để vun trồng bên kẽ ngạch;
Cò nhiều văn tự, cớ sao lặn lội ở bờ sông? (*)
*Chú thích: Cò nhiều văn tự
Cò "giàu" vì bán nhiều ruộng cho vạc, có văn tự đeo ở cổ ? (truyện cổ tích).
CÔ HẦU TRÁCH QUAN LỚN
Chỉ trách người sao chẳng trách mình ?
Mình trung đâu đấy, trách người trinh ?(1)
Áo dầy cơm nặng bao nhiêu đứa ?
Chiếu cạnh giường bên, mấy hột tình ?
Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh!(2)
Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế ?(3)
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình!
(1)Chú thích: Mình trung đâu đấy, trách người trinh ?
Một viên quan vì giỏi nịnh Tây mà có địa vị, đuổi một cô hầu vì cho cô lẳng lơ.
(2)Chú thích: Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh!
Tác giả mượn lời cô hầu để vạch mặt viên quan này quên đất nước.
(3)Chú thích: Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế ?
Cổ bự như cái cong đựng nước, mặt to như cái lệnh làng : hạng người bị thịt thô bỉ.
CÔ TÂY ĐI THI
Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi tôi cũng "mét xì" ông!
Âu đành chùa đó, âu đành phật
Cũng chẳng con chi, cũng chẳng chồng.
Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ
Ai ngờ chữ "sắc" hoá ra "không"!(1)
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ
Cái nợ trầu duyên rũ chửa xong.(2)
(1)Chú thích: Ai ngờ chữ "sắc" hoá ra "không"!
Ý nói: có hoá thành không.
(2)Chú thích: Cái nợ trầu duyên rũ chửa xong.
Ý nói: chưa dứt được nợ vợ chồng đã cưới nhau từ trước.
CHẾ ÔNG ĐỐC HỌC
Ông về đốc học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu!
Học trò chúng nó tội gì thế
Để đến cho ông vớ được đầu ?
Đốc học Nam Định lúc bấy giờ.
CHẾ ÔNG HUYỆN Đ
Thánh cắt ông vào chủ việc thi (1)
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy ?
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì! (2)
Ông huyện Đ được cử làm chủ một kì thi khảo của hội thánh thành Nam.
(1)Chú thích: Thánh cắt ông vào chủ việc thi
Việc cử ông chủ thi thông qua cuộc lễ thánh (xin quẻ).
(2)Chú thích: Bá ngọ
Tiếng chửi của nhà sư
CHỢT GIẤC
Nằm nghe tiếng trống trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao cbợt tỉnh ra.
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Việc gì mà thức một mình ta ?
CHƯỞI CẬU ẤM
Ấm Kỉ này đây, tớ bảo này:
Cha con mày phải cái này cay!
Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa,
Thằng tiểu Phù Long nó chửi mày (*)
(*)Chú thích: chửi mày
Tác giả chơi chữ: "chửi mày" nghĩa là ..."đù mẹ mày!"
CHỮ NHO
Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm ông phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
CHÚ MÁN
Phong lưu nhất ai bằng chú Mán (*)
Trong anh em chúng bạn kém thua xa.
Buổi loạn li bốn bể không nhà
Răng chẳng nhuộm, vợ chẳng lấy, lụa là chẳng mặc.
Mán chỉ làm đủ tiền tiêu vặt
Khi cao lâu, khi cà phê, khi nước đá,
khi thuốc lá, khi đủng đỉnh ngồi xe
Sự đời Mán chẳng buồn nghe.
(*)Chú thích: chú Mán
Một người đến ở Nam Định, làm nghề chở lợn thuê ở chợ Vị Hoàng. Nhưng tính cách có nhiều nét lạ, như một kẻ ngông và phớt đời. Tú Xương nhân lấy chú làm nhân vật trong thơ của mình.
Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét