Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2009

Thơ Nôm Nguyễn Khuyến

Về hay ở
Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê?
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gáy từng gáy sáng tẻ tè te.
Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.


Trở về vườn cũ
Vườn Bùi (1) chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,
Thú khâu hác lâm tuyền (2) âu cũng thế.
Bành Trạch (3) cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công (4) rượu nhạt chuốc chiều xuân.
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp?
Ngươi chớ giận Lỗ Hầu (5) chẳng gặp.
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi?

(Tác giả tự dịch bài Bùi viên cựu trạch ca)

(1) Vườn Bùi: Thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục (Nam Hà) quê hương Nguyễn Khuyến.
(2) Khâu hác: gò và khe; Lâm tuyền: rừng và suối.
(3) Bành Trạch: tên một huyện cũ thuộc tỉnh Giang Tây (Trung Quốc).
(4) Ôn công: tức Tư Mã Quang, khi cáo quan về ở ẩn chỉ uống rượu tiêu sầu.
(5) Lỗ Hầu: tức Lỗ Bình Công.

Uống rượu vườn Bùi
Tuý Ông (1) ý chẳng say về rượu,
Say vì đâu, nước thẳm với non cao.
Non lặng ngắt, nước tuôn ào,
Tôi với bác xưa nay cùng thích thế.
Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ,
Có người say rượu tiếng còn nay.
Cho nên say, say khướt cả ngày,
Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng.

Chu Bá Nhân (2) thuở trước sang sông.
Chỉ tỉnh rượu ba ngày không phải ít.
Kêu gào thế cười chi cho mệt,
Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say
Xin người gắng cạn chén này.

(Tác giả tự dịch bài "Bùi viên đối ẩm" trích cú ca)

(1) Tuý Ông: "Ông say" tên hiệu của Âu Dương Tu đời Tống.
(2) Chu Bá Nhân: Chu Nghị.


Nghe hát đêm khuya
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy,
Nửa chen mặt nước, nửa từng mây.
Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước,
Ngán kẻ phương trời chẳng đứt dây.

Bẻ liễu thành Đài thôi cũng xếp, (1)
Trồng lan ngõ tối ngát nào hay?
Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng,
Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.

(1) Bẻ liễu thành đài: tác giả dẫn điển Hán Hoành đời Đường, lấy một danh kĩ là Liễu thị ở phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để liễu thị ở lại đó ba năm, không đón đi được, nên làm bài "Chương Đài liễu" để thăm.

Tự trào
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng,
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

Tự thuật
Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,
Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa, thưa rằng được.
Chén rượu say rồi, nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.


Ngày xuân dặn các con
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?

(Tác giả tự dịch bài "Xuân nhật thị chư nhi")

Lên lão
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm lăm ông cũng lão đây mà.
Anh em làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ, (1)
Có rượu thời ông chống gậy ra.

(1) Ăn dưng: ăn không.

Ông phỗng đá
Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không.

Ông phỗng đá
Người đâu tên họ là gì?
Khéo thay chích chích chi chi (1) nực cười.
Dang tay ngửa mặt lên trời,
Hay còn lo tính sự đời chi đây?
Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi.
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay tưởng trông cây cỏ nước non này,
Chí cũng rắp dan tay vào hội lạc (2)
Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,
Thượng hải thùy tri ngã diệc âu. (3)
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,
Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu.
Nên chăng đá cũng gật đầu!

(1) Chích chích chi chi: ngây ngô, khờ khạo.
(2) Hội lạc: một hội hưởng vui của một số nhà thơ về đời Tống.
(3) Câu này và câu trên ý nói: ta tự cười đầu đã bạc phơ như đầu chim hạc trong chốn núi xanh, ai có hay đâu ta cũng như con chim âu, ung dung nơi bãi biển xanh.


Lời gái goá
Chàng chẳng biết gái này gái goá,
Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.
Khéo thay cái mụ tá ơm. (1)
Đem chàng trẻ tuổi ép làm lứa đôi.
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,
Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao.
Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?

Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi;
Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
Tư bôn (2) lại phải kẻ cười người chê.
Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?
Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay.
Thương thì gạo vải cho vay,
Lấy chồng thì gái goá này xin van!

(Tác giả tự dịch bài "Li phụ hành")

1. Mụ tá ươm: chỉ người mai mối.
2. Tư bôn: chỉ người con gái chốn nhà đi theo trai.

Anh giả điếc
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày",
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu. (1)
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.

1. Hai câu chữ Hán ý nói: khi mọi người ngồi nói chuyện và cười cợt thì ngây ra như gỗ, nhưng đêm khuya leo trèo thì lanh lẹn như con khỉ.


Chế ông đỗ Cự Lộc
Văn hay chữ tốt ra tuồng,
Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.
Vẻ thầy như vẻ con tôm,
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.
Vẻ lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,
Vẻ cô đầu nói móc có vài câu:
Anh chẳng sang, mà cũng chẳng giàu.
Hầu bao ních, rận bâu quanh chiếu;
Khăn nhuộm lờ lờ mùi nước điếu,
Nón sơn không méo cũng không tròn.
Quần vải thô, ngại giặt ngả màu son,
Giày cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lấy.
Phong lưu ấy, mà tình tính ấy,
Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,
Xinh thay diện mạo anh hùng!



Mẹ mốc
So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra; (1)
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim (2)
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết. (3)
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn kia dễ bán dại này!

1. Mẹ Mốc điên, xé quần xé áo, nên chỉ trơ có tấm thân không che đậy.
2. Câu này và câu trên đại ý nói: mặt ngoài không cần đẹp như ngọc, nhưng trong lòng hằng giữ bền như vàng.
3. Tiết: khí tiết.

Mừng con dựng được nhà
Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà,
Mừng thấy con ta dựng được nhà
Năm mới lệ thường thêm tuổi một,
Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba. (1)

Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu dốc,
Chữ "dại" đầu năm xổ túi ra. (2)
Một khóm thủy tiên năm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa.

1. Bữa tiệc do phe giáp, một tổ chức nhỏ trong làng, làm lễ mừng thọ các bậc bô lão. ở đây ý nói nhà thơ cũng đã vào bậc bô lão 60 tuổi trở lên rồi.
2. ý nói ngâm vịnh nhiều.

Vịnh tiến sĩ giấy
I

Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu?
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.
Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.

II

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, (2)
Nét son điểm rõ mặt văn khôi. (3)
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh thế mới hời! (4)
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

1. Hoa man: người thợ làm nghề hàng mã.
2. Giáp bảng: bảng đề tên từ học vị tiến sĩ trở lên.
3. Văn khôi: đầu làng văn. ở đây chỉ người có đỗ đạt cao.
4. Hời: giá rẻ.


Lời vợ anh phường chèo
Xóm bên đông có phường chèo trọ,
Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò:
Rằng: "ta thường làm quan to,
Sao người coi chẳng ra trò trống chi?"
Vợ giận lắm mắng đi mắng lại:
"Tuổi đã già sao dại như ri?
Đêm hôm ai chẳng biết chi,
Người ta biết đến thiếp thì hổ thay!
ở đời có hai điều nên sợ:
Sống chết người, quyền ở trong tay.
Thế mà chàng đã chẳng hay.
Còn ai sợ đến phường này nữa chăng?
Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,
Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì,
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ (1) khác chi thằng hề".

1. Vai nhọ: người đóng trò bôi mặt lem nhem.


Bồ tiên thi (1)
Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,
"Bồ tiên thi" lại lấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên (2) là ý chú muốn vòi xu!
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.

1. Bồ tiên: cái roi bằng cỏ bồ mà Lưu Khoan, một ông quan đời Hán nổi tiếng nhân từ, dùng để đánh tội nhân. Dựa vào điển này, tên tri huyện đã mở cuộc thi thơ và ra đầu đề là "bồ tiên thi" ngầm ý khoe mình là người biết thương dân.
2. Tiên: "tiên" nghĩa là cái roi, đồng âm với chữ "tiên" nghĩa là đồng xu.


Vịnh núi An Lão
Mặt nước mênh mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn còn non, (1)
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lanh ngấn chửa mòn.
Một lá (2) về đâu xa thẳm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con.
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!

1. Tác giả chơi chữ, tên núi là An Lão (lão: già) nhưng người ta thường nói "núi non".
2. Lá: con thuyền.


Nhớ cảnh chùa Đọi
Già yếu xa xôi bấy đến nay,
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay!
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá.
Sư cụ nằm chung với khói mây
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.

(Tác giả tự dịch bài "ức Long Đội Sơn")


Chợ Đồng
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền (1) được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc (2) nhà ai một tiếng đùng.

1. Chợ Đồng họp ngay ở bên cạnh một ngôi đền. Xung quanh đền lại đắp tường đất dày bao bọc, gọi là tường đền.
2. Pháo trúc: trúc đốt trong lửa, có tiếng nổ to.


Chơi chợ trời Hương Tích
Ai đi Hương Tích chợ trời đi!
Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
Đổi chác người tiên cùng khách bụt,
Bán buôn gió chị lại trăng dì.
Yến anh chào khách nhà mây tỏa,
Hoa quả bày hàng điếm cỏ che.
Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ.
Bán mua mặc ý muốn chi chi.


Chơi núi Non Nước (1)
Chom chỏm trên sông đá một hòn,
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ, (2)
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều (3) trơ mốc thếch,
Hồn câu Thái phó (4) tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn,
Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non.

1. Núi Non Nước, một thắng cảnh nằm ven bờ sông Đáy ở thị xã Ninh Bình.
2. Bàn Cổ: Ông Bàn Cổ sinh từ lúc mới có trời đất.
3. Tiền triều: triều vua thời trước.
4. Hòn câu thái phó: tảng đá mà thái phó Trương Hán Siêu đã ngồi câu cá.


Than mùa hè
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi ả,
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy ngỏ cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đã sớm giục giã.


Vịnh mùa hè
Biếng trông trời hạ nước non xa,
ý khí ngày thường nghĩ đã trơ.
Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.
Thơ Đào (1) cửa miệng đưa câu rượu
Xóm Liễu (2) quanh khe chịu tiếng khờ.
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa.

(Tác giả tự dịch bài "Họ nhật ngẫu hứng")

1. Đào tức là Đào Tiềm đời Tấn.
2. Liễu Tôn Nguyên bị vua bắt tội, phải về quê, tự cho mình là ngu dại.


Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.


Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. (1)

1. Ông Đào: Đào Tiềm.


Thầy đồ ve gái góa
Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay!
Bắc cầu, câu cũ (1) không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa (2) vẫn đắng cay.
ở góa thế gian nào mấy mụ?
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy?
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

(Tác giả tự dịch bài "Thiền sư")
1. Do câu ca dao:
"Muốn sang thì bắc cầu kiều..."
2. Do câu ca dao:
"Trách người quân tử vô tình,
Có gương mà để bên mình không soi"
ý nói: người đàn bà goá chê thầy đồ nhát gan, không dám mạnh bạo hơn trong việc ve gái.


Muốn lấy chồng
Bực gì bằng gái trực phòng không?
Tơ tưởng vì chung một tấm chồng.
Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại, nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.


Mừng ông nghè mới đỗ
Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
Ân tứ (1) dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh, (2)
Hoãn (3) đẹp nàng này khó nhẽ che.
Hiển quí đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe. (4)

1. Ân tứ: ơn vua ban.
2. Câu này rút ý câu ca dao:
Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.
Ông nghè sai lính ra ve,
- Trăm lạy ông nghè, tôi đã có con.
- Có con thì mặc có con.
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.
3. Hoãn: một loại hoa tai vàng.
4. Câu này rút ý câu tục ngữ:
Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.


Hỏi thăm quan
tuần mất cướp

Tôi nghe khẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc có đau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!


Tặng đốc Hà Nam
Ai rằng ông dại với ông điên,
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
Khoét thằng mặt trắng (1) lấy tam nguyên (2)
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,
Phép nước xin chừa móng lợn đen (3)
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.

1. Thằng mặt trắng: do câu "Bạch diện thư sinh" chỉ người học trò.
2. Tam nguyên: ba đồng bạc; còn đồng âm với chữ "Tam nguyên" là đỗ đầu luôn ba khoa: thi hương, thi hội và thi đình.
3. Móng lợn đen: ám chỉ việc ông đốc học này đã có lần bị Tây đá đít.


Đĩ cầu Nôm (1)
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?
Trời sinh ra cũng để mà chơi!
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,
Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
Người ba đấng, của ba loài,
Nếu những như ai thì đĩ mốc.
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc (2)
Khá khen thay làm đĩ có tông (3)
Khắp giang hồ chẳng chốn nào không.
Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng.
Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,
Còn một phương để nhịn lấy chồng.
Chém cha cái kiếp đào hồng, (4)
Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.
Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
Mai sau ngày giỗ có văn nôm.
Cha đời con Đĩ Cầu Nôm.

1. Cầu Nôm thuộc làng Đại Đồng ở Hải Hưng.
2. Có lẽ ở đây nhà thơ nói đến Tư Hồng, một nhân vật lúc ấy làm đĩ lấy Tây.
3. Có tông: có nòi.
4. Kiếp hồng đào: Kiếp trăng hoa.


Mừng đốc học Hà Nam
Ông làm đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,
Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy. (1)
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.

1. Một chầy: tức một tiền. Ngày xưa, mỗi thí sinh khi vào nộp quyển khảo thi, phải nộp kèm theo một tiền (60 đồng kẽm).


Hội Tây
Kìa hội thăng bình (1) tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

1. Hội thăng bình: hội mừng được thái bình, vui vẻ. ở đây ý nói hội mừng cách mạng tư sản Pháp thành công.


Hoài cổ (1)
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di (2) rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi. (3)

1. Bài này tuy đầu đề là "hoài cổ" nhưng thực ra nhà thơ muốn nói lên cảnh thực dân Pháp bắt dân ta đi phu khai mỏ ở miền núi, đắp đường xe lửa v.v... bị chết nhiều.
2. ý nói đất nước ta.
3. ý nói: vận mệnh của đất nước hồi bấy giờ chẳng khác nào như mây trôi dạt, nước chảy xuôi.


Cuốc kêu cảm hứng
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó.
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.


Chốn quê
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm chưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.


Than nợ
Quản chi công nợ có là bao!
Nay đã nên to đến thế nào?
Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi,
Chục năm chục bảy tính nhiều sao?
Ra đường kẻ cả dừng chân hỏi, (1)
Vào cửa người sang ngửa mặt chào. (2)
Quyết chí phen này trang trải sạch,
Cho đời rõ mặt cái thằng tao.

1. Câu này ý nói: vay nợ của nhiều người nên ra đường ai gặp cũng hỏi nợ.
2. Câu này ý nói: vì có nợ nên khi vào nhà chủ nợ phải tỏ thái độ vồn vã, kính trọng.


Nước lụt Hà Nam
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng.
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
Đi đâu cũng thấy người ta nói,
Mười chín năm nay lại cát bồi.


Vịnh lụt
Tị trước (1) Tị này (2) chục lẻ ba,
Thuận dòng nước cũ lại bao la.
Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách,
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.
Bắc bậc người còn chờ chúa đến, (3)
Đóng bè ta phải rước vua ra. (4)
Sửa sang việc nước cho yên ổn,
Trời đã sinh ta ắt có ta.

1. Năm Quí Tị (1893) vỡ đê Nhị Hà.
2. Năm ất Tị (1905), mười ba năm sau, lại có một trận lụt nữa.
3. ý nói: chủ nhà phải trèo lên cao để tránh nước lụt.
4. ý nói: người ta phải đem đầu rau (ông núc) đặt lên bè nổi để thổi nấu. Đầu rau có nơi gọi là vua bếp.


Bạn đến chơi nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.


Lụt hỏi thăm bạn
Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn bé?
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
Phận thua suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả chơi bời họa sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu.


Tặng bà Hậu Cẩm (1)
Nghĩ xem đẹp nhất ở làng Và,
Tiếc gọi rằng già cũng chửa già
Làn sóng liếc ngang đôi mắt phượng
Tóc mây rủ xuống một đuôi gà.
Nói năng duyên dáng coi như thể...
Đi đứng khoan thai thế cũng là...
Nghe nói muốn thôi, thôi chửa được,
Được làm dơ dở đã thôi a?

(Theo tài liệu của cụ Nguyễn Khắc Thạnh và ông Bùi Văn Cường)
1. Tên thực là Lã Thị Thoan, trước lấy ông Nhiêu Sinh, ông Sinh chết, bà Thoan còn trẻ lại có nhan sắc, đi lấy một tên Tây cẩm ở Nam Định. Bà ta có làm chân thu thuế trong làng một thời gian rồi xin thôi.


Lấy Tây
Con gái đời này, gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
Ba vuông phất phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
Trời đất khéo thương chàng bạch quỉ (1)
Giang san riêng sướng ả hồng nhan
Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
Con gái đời nay, gái mới ngoan! (2)

(1) Bạch quỉ: chỉ tên người Pháp.
(2) Tác giả tỏ thái độ chua chát trước cảnh "lấy Tây" của gái Việt thời đó.


Khóc Dương Khuê
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa (1) ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần (2) trước sau,

Buổi dương cửu (3) cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng (4) chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo (5) cũng hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn (6).
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

(Tác giả tự dịch bài "Văn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư").

1.Đăng khoa: đi thi đỗ.
2. Đông bích điển phần: đọc sách, tra cứu.
3. Buổi dương cửu: ý nói thời gian nan.
4. Đẩu thăng: cái đấu, cái thăng, đơn vị đo lường ngày xưa. Câu này ý nói: trước cảnh đời đổi thay phải từ quan về, nhà thơ không dám tham công danh bổng lộc nữa.
5. Giường treo: Trần Phồn đời Hậu Hán, dành riêng cho bạn thân một cái giường khi bạn đến thì mời ngồi, lúc bạn về thì treo lên.
6. Câu này nhắc lại tích Bá Nha và Trung Tử Kì, hai bạn tri âm. Khi Chung Tử Kì mất thì Bá Nha đập nát cây đàn không gảy nữa.



Khai bút
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,
Bút mới xô tay thử một hàng.
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ tổng, (1)
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang. (2)
Một năm một tuổi, trời cho tớ,
Tuổi tờ trời cho, tớ lại càng... (3)

1.Cụ tổng: tức cụ Tổng Hào ở gần nhà Nguyễn Khuyến, nhà giàu có, xung quanh nhà có lũy tre bao bọc xanh tốt um tùm, chim cò về đậu ở đây rất nhiều.
2. Thầy Nhang: ở cách nhà Nguyễn Khuyến một cái ao.
3. Câu này rút ý câu tục ngữ: Càng già, càng dẻo, càng dai.


Kiều bán mình
Thằng bán tơ kia giở giói ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ, (1)
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a?

1. Mụ: Tú Bà.


Tổng vịnh Kiều (1)
Kiều nhi giấc mộng khéo như cười,
Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi,
Số kiếp bởi đâu mà lận đận?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi!
Cành hoa vườn thúy (2) duyên còn bén,
Giọt nước sông Tiền (3) nợ chửa xuôi.
Chẳng trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi. (4)

1. Bài này nhà thơ vịnh chung hai mươi hồi trong Truyện Kiều.
2. Vườn Thúy: nơi Kiều gặp gỡ Kim Trọng.
3. Sông Tiền: tức sông Tiền Đường, nơi Kiều trầm mình.
4. Chỉ cuộc tái hợp của Kiều và Kim Trọng.


Tạ lại người cho hoa trà
Tết đến người cho một chậu trà,
Đương say ta chẳng biết rằng hoa.
Da mồi, tóc bạc ta già nhỉ,
áo tía đai vàng bác đó a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá. (1)
Gió to luống sợ lúc rơi già. (2)
Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi,
Đếch thấy hơi hương một tiếng khà.

(Tác giả tự dịch bài "Sơn trà")

1. Những hạt mưa nhỏ dần dần xuyên thủng cả lá cây.
2. Gió bấc thổi, làm cho đài hoa rụng.


Vịnh sư
Đầu trọc lốc bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi.
I a kinh một bộ,
Lóc cóc mõ ba hồi.
Cơm chẳng cần cá thịt,
Ăn rặt oản chuối xôi.
Không biết câu tình dục,
Đành chịu tiếng bồ côi.


Chừa rượu
Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.


Bóng đè cô đầu
Bóng người ta nghĩ bóng ta,
Bóng ta, ta nghĩ hoá ra bóng người.
Tỉnh tinh rồi mới nực cười.
Giấc hồ (1) ai khéo vẽ vời cho nên?
Cô đào Sen là người Thi Liễu
Cớ làm sao õng ẹo với làng nho?
Bóng đâu mà bóng đè cô,
Bỗng thấy sự nhỏ to thêm thắc mắc.
Cố hữu diệc vi thân ngoại vật,
Khán lai đô thị mộng trung nhân (2)
Sực tỉnh ra nào biết chuyện xa gần,
Còn văng vẳng tiếng đàn lần tiếng trống.
Quân bất kiến Thiên thai động khẩu cần tương tống; (3)
Dẫu bóng ta, ta bóng có làm sao,
Thực người hay giấc chiêm bao?

1. Giấc hồ: giấc mộng.
2. Hai câu này đại ý nói: ở đời, phàm những cái gì ta có đều là vật ngoài thân cả, và ngẫm lại, người đời đều ở trong giấc mộng cả.
3. Câu này dẫn điển Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc gặp và lấy tiên. ở với nhau được sáu tháng, hai chàng nhớ nhà đòi về, hai nàng tiên ân cần tiễn ra cửa động.


Than già
Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay,
Ông gẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Mái tóc chòm xanh, chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say (1)
Còn một nỗi này thêm chán ngắt,
Đi đâu giở những cối cùng chày (2)

1. Hai câu này ý nói: nhà thơ tuổi đã già, mắt không còn tỏ phải mang kính, chân đi không vững phải chống gậy.
2. Cối chày: để giã trầu cho người già.


Cảm hứng
Ngày trước cũng lên lạy cửa trời, (1)
Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi.
Nước non man mác về đâu tá?
Bạn bè lơ thơ sót mấy người.
Đời loạn đi về như hạc độc, (2)
Tuổi già hình bóng tựa mây côi (3)
Đã hay nhờ được hao mòn lắm,
Một thí (4) lòng son chửa rõ mười.

(Tác giả tự dịch bài "Kí hữu")

1. ý nói: nhà thơ lúc làm quan cũng đã cùng với bạn vào chầu vua ở triều đình.
2. Hạc độc: con hạc một mình, không có bạn.
3. Mây côi: đám mây lẻ loi.
4. Một thí: một chút.


Cáo quan về ở nhà
Ngần ấy năm nay vẫn ở nhà,
Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta.
Bóng hiên thêm ngán hơi nồng nhỉ,
Ngọn gió không nhường tóc bạc a!
Thửa mạ rạch ròi chân (1) xấu tốt,
Đấu lương đo đắn tuổi non già. (2)
Khi buồn chén rượu say không biết,
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.

(Tác giả tự dịch bài "Mạn Hứng")

(1) Chân: tức chân ruộng.
(2) Đong thóc sành sỏi.


Phú Đắc (1)
Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng.

Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng,
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
Chữ nhất nhi chung (2) đành đã vậy,
Câu tam bất hiếu (3) nữa làm sao?
May mà chim được ông chồng trẻ,
Họa có sinh ra được chút nào?

1. Phú đắc là lối trình bày sự việc cụ thể.
2. Nhất nhi chung: nói người phụ nữ chỉ lấy một người chồng cho đến khi chết.
3. Tam bất hiếu: do câu "bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (Mạnh Tử) nghĩa là bất hiếu có ba điều, không có con là điều lớn nhất.


Đại lão (1)
Năm nay tớ đã bảy mươi tư,
Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.
Lúc hứng, uống thêm dăm chén rượu,
Khi buồn ngâm láo một câu thơ.
Bạn già lớp trước nay còn mấy?
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như. (2)
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Thử xem trời mãi thế này ư?

1. Đại lão: ý nói già lắm.
2. Chín chẳng như: đời mười phần không vừa ý mình đến tám, chín phần.


Di chúc (1)
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục.
Số thầy sinh phải lúc dương cùng. (2)
Đức thầy đã mỏng mòng mong,
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.
Học chẳng có rằng hay chi cả.
Cưỡi đầu người kể đã ba phen; (3)
Tuổi là tuổi của gia tiên,
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.

ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ, (4)
Hóa bây giờ cho bố làm nên;
Ơn vua chửa chút báo đền,
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
Sống không để tiếng đời ta thán,
Chết được về quê quán hương thôn;
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thời thôi;
Cỗ đừng to lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại, con mời người ăn.
Tế đừng có viết văn mà đọc,
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi;
Minh tinh (5) con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ (6) con thì không nên.

Môn sinh (7) chớ bổ tiền đặt giấy,
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi;
Khách quen chớ viết thiếp mời.
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu.
Chẳng qua nợ để cho người sống,
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu!
Lại mang cái tiếng to đầu,
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Khi đưa thầy con rước đầu tiên;
Lại thuê một lũ phường kèn,
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt,
Cúng cho thầy một ít rượu hoa;
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".

1. Theo ý kiến một số cụ già ở địa phương nhà thơ, thì bài này là do cụ Trần Tán Bính dịch trong buổi lễ đưa ma cụ Nguyễn Khuyến.
2. Dương cùng: ý nói nhà thơ đã đến ngày tận số.
3. ý nói: nhà thơ qua ba kì thi đều đỗ đầu bảng (tam nguyên).
4. Ông cụ thân sinh nhà thơ thuở trước cũng là chân học khoa cử, nhưng không đỗ đạt cao.
5. Minh tinh: một mảnh lụa, mảnh vải hoặc mảnh giấy đề tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị người chết trong khi đưa đám ma.
6. Đề chủ: viết tên và hiệu người chết vào. Việc viết này thường được coi là tôn trọng, nên phải mời người có chức tước làm.
7. Môn sinh: học trò cùng học một thầy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét